Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình quân đầu người trong một thời gian nhất định. Đây luôn là một trong những mục tiêu then chốt của Việt Nam trong quá trình phát triển. Trong những năm gần đây, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận.
Tuy nhiên, để duy trì được tốc độ tăng trưởng bền vững trong tương lai, Việt Nam cần tiếp tục cải thiện các nhân tố then chốt như đầu tư, lao động, tiến bộ công nghệ và năng suất. Bên cạnh đó, các chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp cũng đóng vai trò quan trọng. Chỉ khi nắm vững bản chất và các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, Việt Nam mới có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng bền vững trong thời gian tới.
1. Tăng trưởng kinh tế là gì?
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình quân đầu người trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế.
Cụ thể:
– Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products, GDP) hay tổng sản phẩm trong nước là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất, tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế trong một thời gian nhất định (thường là một năm tài chính).
– Tổng sản phẩm quốc gia (Gross National Products, GNP) là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một nước trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm quốc dân bằng tổng sản phẩm quốc nội cộng với thu nhập ròng.
– Tổng thu nhập bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc gia chia cho dân số.
Nói một cách đơn giản nhất, tăng trưởng kinh tế đề cập đến sự gia tăng tổng sản lượng trong một nền kinh tế, thường được biểu hiện ở sự gia tăng thu nhập quốc dân. Thông thường đó là lợi nhuận trong sản xuất tăng trưởng cùng với năng suất cận biên trung bình, dẫn đến thu nhập được cải thiện, khuyến khích người tiêu dùng mở hầu bao và mua sắm nhiều hơn, đồng nghĩa với chất lượng cuộc sống và mức sống vật chất cao hơn, tạo ra môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh phát triển, thu hút đầu tư…
TẢI MIỄN PHÍ: Trọn bộ 20+ tài liệu Chiến lược Quản trị doanh nghiệp toàn diện
2. Các lý thuyết về các mô hình tăng trưởng kinh tế
Theo cuốn sách Kinh tế học của sự phát triển của chương trình giảng dạy Kinh tế trường Đại học Fullbright, có các lý thuyết về các mô hình tăng trưởng kinh tế như sau:
Mô hình tăng trưởng cơ bản
Những mô hình tăng trưởng kinh tế và sản lượng kinh tế cơ bản nhất dựa vào một số phương trình liên hệ giữa tiết kiệm, đầu tư, và tăng trưởng dân số với quy mô lực lượng lao động, trữ lượng vốn và tiếp đến là với tổng sản lượng của một hàng hoá duy nhất. Những mô hình này thoạt đầu tập trung vào mức đầu tư, lao động, năng suất, và sản lượng. Sau đó việc xem xét sự thay đổi các biến này sẽ trở nên đơn giản.
Trọng tâm sau cùng của chúng ta là tìm hiểu những yếu tố chính xác định sự thay đổi sản lượng, nghĩa là tỉ lệ tăng trưởng kinh tế. Phiên bản mô hình tăng trưởng kinh tế cơ bản, đơn giản mà ta xem xét ở đây có 5 phương trình: (1) hàm tổng sản lượng; (2) một phương trình xác định mức tiết kiệm; (3) đồng nhất thức tiết kiệm – đầu tư; (4) một phương trình liên hệ giữa đầu tư mới và thay đổi trữ lượng vốn; và (5) một biểu thức về tỉ lệ tăng trưởng lực lượng lao động.
Các mô hình tăng trưởng tiêu chuẩn đều có trọng tâm là một hay một chuỗi hàm sản xuất. Ở cấp độ kinh tế vi mô hay từng doanh nghiệp riêng lẻ, các hàm sản xuất này liên hệ số người lao động và máy móc với quy mô sản lượng của doanh nghiệp. Ví dụ, hàm sản xuất của một nhà máy dệt may sẽ cho ta biết nhà máy có thể sản xuất thêm bao nhiêu sản lượng nếu tuyển dụng thêm 50 người lao động và mua thêm năm chiếc máy dệt nữa.
Các hàm sản xuất thường được phát triển từ mối liên hệ giữa một số yếu tố đầu vào hữu hình nhất định và số sản lượng vật chất hữu hình được sản xuất ra từ số yếu tố đầu vào đó. Ở cấp độ quốc gia hay toàn bộ nền kinh tế, hàm sản xuất mô tả mối quan hệ giữa quy mô lực lượng lao động của một nước và giá trị trữ lượng vốn với mức tổng sản lượng nội địa của đất nước đó (tổng sản lượng). Mối quan hệ trong toàn nền kinh tế này được gọi là hàm tổng sản lượng.
Mô hình tăng trưởng Harrod Domar
Mô hình tăng trưởng kinh tế dạng đơn giản là mô hình Harrod – Domar. Dựa vào tư tưởng của Keynes, vào những năm 40 với sự nghiên cứu một cách độc lập, hai nhà kinh tế học là Roy Harrod ở Anh và Evsay Domar ở Mỹ đã cùng đưa ra mô hình giải thích mối quan hệ giữa sự tăng trưởng và thất nghiệp ở các nước phát triển. Mô hình này cũng được sử dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển để xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và các nhu cầu về vốn. Mô hình này coi đầu ra của bất kỳ đơn vị kinh tế nào, dù là một công ty, một ngành công nghiệp hay toàn bộ nền kinh tế phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho nó.
Mô hình Harrod Domar giả định một hàm sản xuất có hệ số cố định, giúp đơn giản hoá mô hình, nhưng đưa ra một sự kết hợp cứng nhắc giữa vốn và lao động để sản xuất một mức sản lượng bất kỳ. Trong mô hình này, tăng trưởng có quan hệ trực tiếp với tiết kiệm theo một hệ số bằng nghịch đảo của tỷ số vốn tăng thêm trên sản lượng (ICOR).
Mô hình Harrod Domar chú trọng vào vai trò của tiết kiệm, nhưng đồng thời lại chú trọng thái quá vào tầm quan trọng của nó bằng cách ngụ ý rằng tiết kiệm (và đầu tư) là điều kiện đủ để tăng trưởng bền vững, trong khi thật ra thì không đủ. Đồng thời, mô hình cũng không trực tiếp đề cập đến sự thay đổi năng suất. Ngoài ra, giả định của mô hình về ICOR cố định làm cho mô hình trở nên kém chính xác hơn theo thời gian khi cơ cấu sản xuất tiến hoá và sản lượng biên của vốn thay đổi.
Mô hình tăng trưởng Solow (Tân cổ điển)
Năm 1956, nhà kinh tế học MIT Robert Solow giới thiệu một mô hình tăng trưởng kinh tế mới, là một bước tiến dài kể từ mô hình Harrod Domar. Solow cho rằng có nhiều vấn đề phát sinh từ hàm sản xuất cứng nhắc trong mô hình Harrod Domar. Giải pháp của Solow là bỏ hàm sản xuất có hệ số cố định và thay thế nó bằng hàm sản xuất tân cổ điển cho phép có tính linh hoạt hơn và có sự thay thế giữa các yếu tố sản xuất.
Trong mô hình Solow, các tỷ số vốn – sản lượng và vốn- lao động không còn cố định nữa mà thay đổi tuỳ theo nguồn vốn và lao động tương đối trong nền kinh tế và quá trình sản xuất. Cũng như mô hình Harrod Domar, mô hình Solow được triển khai để phân tích các nền kinh tế công nghiệp, nhưng đã được sử dụng rộng rãi để tìm hiểu tăng trưởng kinh tế tại tất cả các nước trên thế giới, kể cả các nước đang phát triển.
Mô hình Solow đã có ảnh hưởng vô cùng to lớn và vẫn là trọng tâm của phần lớn các lý thuyết tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia đang phát triển. Mô hình cho phép có sự linh hoạt hơn khi kết hợp vốn và lao động trong quá trình sản xuất và trình bày khái niệm quan trọng về sản lượng biên giảm dần của vốn. Mô hình cho phép ta giải thích tác động đối với tăng trưởng của sự thay đổi tỉ lệ tiết kiệm, tỉ lệ tăng trưởng dân số, và thay đổi công nghệ.
Mô hình giúp ta hiểu rõ hơn về nhiều thực tế tăng trưởng so với mô hình Harrod Domar. Tuy nhiên, mô hình vẫn không giải thích được đầy đủ về tăng trưởng. Nó không giúp ta hiểu được những nguyên nhân cơ bản hơn của sự tích luỹ yếu tố sản xuất và tăng trưởng năng suất, và vì là mô hình một khu vực, nên nó không giải thích được việc phân bổ nguồn lực giữa các khu vực kinh tế.
Mô hình Solow có một vài ý nghĩa quan trọng, bao gồm: (1) các nước nghèo có tiềm năng tăng trưởng tương đối nhanh; (2) tỉ lệ tăng trưởng có xu hướng chậm đi khi thu nhập tăng; (3) giữa những nước có chung các đặc điểm quan trọng, thu nhập của những nước nghèo có tiềm năng hội tụ với thu nhập của những nước giàu; và (4) tiếp thu công nghệ mới là trọng tâm để tăng tốc và duy trì tăng trưởng kinh tế.
Mô hình hai khu vực
Một trong những hạn chế của cả hai mô hình Harrod Domar và Solow là vốn và lao động kết hợp lại để sản xuất chỉ có một sản phẩm, trong khi trên thực tế tất cả các nền kinh tế đều sản xuất nhiều hàng hoá và dịch vụ. Cho dù các mô hình một hàng hoá duy nhất có ưu điểm lớn là đơn giản, chúng không tìm hiểu được hoạt động sản xuất trong các khu vực khác nhau như nông nghiệp, công nghiệp, hay dịch vụ (như ngân hàng hay du lịch); sự phân bổ vốn, lao động và đất đai giữa các hoạt động kinh tế khác nhau này; và ý nghĩa đối với tăng trưởng.
Sự giảm dần tỷ trọng nông nghiệp và tăng dần tỷ trọng công nghiệp trong GDP là trọng tâm của tăng trưởng dài hạn và phát triển, cho thấy rằng một cách tiếp cận khác có thể sẽ giúp ta am hiểu nhiều hơn quá trình tăng trưởng.
Giống như các mô hình một hàng hoá, các mô hình hai khu vực cũng thừa nhận tầm quan trọng to lớn của lao động và vốn trong quá trình tăng trưởng. Một vài phiên bản đặc biệt nhấn mạnh vào đất đai như một cấu phần chính của trữ lượng vốn trong sản xuất nông nghiệp để đưa vào mô hình một số đặc điểm chính của đất (ví dụ như không thể di chuyển từ nơi này đến nơi khác và tổng trữ lượng đất canh tác không thể dễ dàng mở rộng được).
Quan trọng hơn, các mô hình hai khu vực có thể giải thích sự khác biệt về mức độ và tỉ lệ tăng trưởng năng suất trong các hoạt động kinh tế khác nhau và ý nghĩa của tiền lương tương đối (và sinh lợi từ vốn đầu tư), sự phân bổ vốn và lao động giữa hai khu vực, và tiềm năng di cư lao động từ nông thôn (hoạt động nông nghiệp) về thành thị (vùng công nghiệp).
Do đó, mô hình hai khu vực đặt ra những câu hỏi hơi khác so với mô hình một khu vực và có thể làm rõ những khía cạnh khác nhau của quá trình tăng trưởng.
Nhìn chung, mô hình hai khu vực làm rõ sự tương tác giữa nông nghiệp và công nghiệp. Mô hình thặng dư lao động cho thấy rằng công nghiệp có thể tăng trưởng mà không làm giảm sản lượng nông nghiệp. Mô hình này cũng kết luận rằng, ở nơi có thặng dư lao động và khả năng gia tăng sản xuất lương thực bị hạn chế, tăng trưởng dân số có thể là một thảm hoạ. Tuy nhiên, vì hầu hết các nền kinh tế không có thặng dư lao động, cho nên sự phát triển công nghiệp xảy ra cùng với sự giảm sút sản xuất nông nghiệp, và tăng trưởng dân số không nhất thiết có tác động tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế.
3. Tốc độ tăng trưởng kinh tế thực và đo lường tăng trưởng kinh tế thực
Tốc độ tăng trưởng kinh tế thực (còn được gọi là tốc độ tăng trưởng kinh tế thực tế) là sự gia tăng của sản lượng kinh tế trong một nền kinh tế trong một khoảng thời gian cụ thể, được điều chỉnh để loại bỏ tác động của lạm phát. Điều này cho phép đánh giá mức độ thực sự của sự phát triển kinh tế mà không bị ảnh hưởng bởi biến đổi giá cả.
Thường thì, khi chúng ta đo lường tốc độ tăng trưởng kinh tế thông qua các chỉ số như GDP (Gross Domestic Product), chúng ta thường gặp phải vấn đề lạm phát. Lạm phát có thể làm tăng giá trị của hàng hóa và dịch vụ mà không phản ánh thực sự sự gia tăng trong sản xuất. Do đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế thực ra đời để giúp loại bỏ yếu tố này và đo lường mức độ tăng trưởng dựa trên giá trị thực tế của sản lượng kinh tế.
Ví dụ, nếu một nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ 4% mỗi năm và tỷ lệ lạm phát là 2%, thì tốc độ tăng trưởng kinh tế thực là 2%, do 4% tăng trưởng trừ đi 2% lạm phát.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế thực cho phép chúng ta đánh giá mức độ thực sự của sự phát triển kinh tế mà không bị nhiễu loạn bởi biến đổi giá. Điều này cung cấp cho chúng ta cái nhìn chính xác hơn về hiệu suất và tiến bộ của một nền kinh tế trong môi trường kinh tế chung.
Cách đo lường tốc độ tăng trưởng kinh tế thực
Công thức tính tốc độ tăng trưởng kinh tế thực là:
Phương pháp này thường được thực hiện bằng cách trừ đi tỷ lệ lạm phát từ tốc độ tăng trưởng kinh tế không điều chỉnh. Ví dụ, nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế không điều chỉnh là 5% và tỷ lệ lạm phát là 2%, thì tốc độ tăng trưởng kinh tế thực sẽ là 5% – 2% = 3%.
Bằng cách sử dụng tốc độ tăng trưởng kinh tế thực, chúng ta có cái nhìn chính xác hơn về hiệu suất và tiến bộ của một nền kinh tế mà không bị nhiễu loạn bởi biến đổi giá. Điều này giúp chúng ta đánh giá mức độ thực sự của sự phát triển kinh tế và xác định liệu mức tăng trưởng đang thúc đẩy sự phát triển bền vững hay chỉ là tăng trưởng tạm thời dựa trên giá trị thực tế của sản lượng kinh tế.
4. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Theo Báo cáo Chẩn đoán Quốc gia của Ngân hàng Thế giới cập nhật hồi tháng 04/2024, về Việt Nam, những cải cách kinh tế từ năm 1986 kết hợp với những xu hướng toàn cầu thuận lợi đã nhanh chóng giúp Việt Nam phát triển từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. GDP bình quân đầu người tăng gấp 6 lần trong vòng chưa đầy 40 năm, từ dưới 600 USD/người năm 1986 lên gần 3.700 USD (theo PPP năm 2015). Tỉ lệ nghèo (theo chuẩn 3,65 USD/ngày, theo PPP năm 2017) giảm từ hơn 14% năm 2010 xuống còn 4,2% năm 2020.
Nhờ có nền tảng vững chắc, nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện sức chống chịu đáng kể trong những giai đoạn khủng hoảng. Tăng trưởng kinh tế dự kiến sẽ đạt 5,5% vào năm 2024, tăng từ mức 5% vào năm 2023, nhờ nhu cầu toàn cầu tăng và niềm tin của người tiêu dùng trong nước được khôi phục. Tăng trưởng kinh tế thực dự kiến sẽ phục hồi trong ba năm tới, đạt mức trung bình trước đại dịch vào năm 2026.
Với tỉ lệ tăng trưởng kinh tế ở mức 2,5% đến 3,5% mỗi năm trong suốt 30 năm qua, ngành nông nghiệp đã hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an ninh lương thực. Năm 2020 nông nghiệp đóng góp 14% cho GDP và 38% việc làm, năm 2021 xuất khẩu đạt hơn 48 tỷ USD giữa thời điểm đại dịch COVID-19.
Y tế đạt nhiều tiến bộ lớn khi mức sống ngày càng cải thiện. Tuổi thọ trung bình tăng từ 70,5 năm 1990 lên 75,45 năm 2020. Chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân là 73, cao hơn trung bình khu vực và trung bình thế giới, trong đó 87% dân số có bảo hiểm y tế.
Chỉ số vốn con người của Việt Nam là 0,69 trên thang cao nhất là 1, xếp hạng cao nhất trong các nền kinh tế có thu nhập trung bình thấp. Bên cạnh đó, khả năng người dân tiếp cận hạ tầng cơ sở cũng được cải thiện đáng kể.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam qua các năm từ 2011 – 2023. Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) tổng hợp dữ liệu từ Tổng cục Thống kê.
Việt Nam đã đặt ra những tầm nhìn phát triển tham vọng hơn, hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045. Để đạt được mục tiêu này, nền kinh tế cần tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm 6% trên đầu người trong 25 năm tới. Việt Nam cũng hướng tới mục tiêu phát triển theo hướng xanh hơn, bao trùm hơn.
Tại COP27, Việt Nam cam kết giảm 30% lượng khí thải mêtan và chấm dứt nạn phá rừng vào năm 2030 đồng thời đạt được mức phát thải carbon bằng 0 vào năm 2050. Để đạt được các mục tiêu này, Việt Nam đã phê duyệt đề án “Một triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp” tại COP28. Ngân hàng Thế giới đang tích cực hợp tác với Việt Nam trong việc thiết kế và thực hiện đề án này.
Tương lai của Việt Nam đang được định hình bởi một vài xu thế lớn. Dân số đang già đi nhanh chóng, thương mại toàn cầu đang suy giảm, trong khi đó suy thoái môi trường, các vấn đề biến đổi khí hậu và tự động hóa ngày gia tăng. Đại dịch COVID-19 đặt ra những thách thức chưa từng có, có thể làm chậm tiến trình đạt được các mục tiêu phát triển.
Để vượt qua những thách thức này và đáp ứng các mục tiêu phát triển, Ngân hàng Thế giới cho rằng, Việt Nam cần cải thiện đáng kể hiệu quả thực thi chính sách, đặc biệt trong các lĩnh vực tài chính, môi trường, chuyển đổi kỹ thuật số, giảm nghèo/anh sinh xã hội và cơ sở hạ tầng.
5. Các nhân tố ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Theo bài nghiên cứu Nhận diện các nhân tố có ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam của PGS. TS. Nguyễn Văn Hiệu – Chủ nhiệm bộ môn Tài chính công – trường Đại học Kinh tế – Đại học Quốc gia Hà Nội, có nhiều nhân tố ảnh hưởng tích cực và hạn chế đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam, cụ thể như sau:
5.1. Các nhân tố tích cực
– Hội nhập kinh tế quốc tế
Một trong những nhân tố đảm bảo sự tăng trưởng bền vững đã được nêu trên là chính sách hội nhập nhất quán vào nền kinh tế thế giới. Tất nhiên, hội nhập không phải không có giá phải trả song xét về tác động cuối cùng, hội nhập kinh tế sâu rộng mang lại nhiều lợi ích hơn là thiệt hại, nhất là đối với các nước đang phát triển.
Việt Nam bắt đầu tham gia hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới kể từ khi chính thức tham gia vào WTO (2007), nhờ đó có điều kiện mở rộng giao lưu kinh tế và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu ở hầu hết các khu vực. Năm 2015 đánh dấu một bước phát triển mới đẩy tiến trình hội nhập lên một tầm mức cao hơn bằng việc ký kết hàng loạt các hiệp định kinh tế thế hệ mới. Điển hình là các Hiệp định hợp tác Việt Nam – EU, Hiệp định Thương mại Tự do khu vực ASEAN và Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC); Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA)… Đây là những hiệp định được coi là đã tạo sự bứt phá mạnh trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam những năm sau đó.
– Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ quốc tế
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên sự tăng trưởng của một quốc gia. Nó là sản phẩm của việc duy trì và kiên định chính sách mở cửa kinh tế và gọi vốn đầu tư và công nghệ quốc tế. Theo đánh giá của ADB, trong vòng 30 năm qua, GDP của các nước đang phát triển khu vực châu Á đã tăng 7,5 lần (tính theo sức mua tương đương) – cao hơn mức tăng trung bình của thế giới là 3 lần; thu nhập bình quân đầu người khu vực châu Á tăng hơn 4 lần trong khi thu nhập bình quân đầu người thế giới chỉ tăng tương đương 2 lần và dự kiến đến năm 2030, kinh tế khu vực châu Á sẽ chiếm 2/3 quy mô kinh tế thế giới.
Một trong những nhân tố quan trọng tạo nên sự tăng trưởng nhanh của khu vực này là sự gia tăng nhanh và chưa có xu hướng dừng lại của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong 10 năm qua, Việt Nam vẫn duy trì mức thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài bình quân 15 – 20 tỷ USD vốn đăng ký mỗi năm. Khi hội nhập quốc tế sâu hơn, Việt Nam còn được hưởng lợi hơn nữa dòng vốn FDI vì các hiệp định này sẽ tiếp tục khơi thông dòng vốn sẵn có tại các nước trong khối vốn đã có quan hệ với Việt Nam. Song song với sự gia tăng của FDI là tác động lan truyền của công nghệ quốc tế sẽ được chuyển giao chính thức và phi chính thức vào các ngành sản xuất tương ứng của Việt Nam. Đây là một trong những nhân tố cơ bản ngày càng có vai trò quan trọng đóng góp vào sự phát triển của kinh tế Việt Nam trong tương lai.
– Môi trường kinh tế vĩ mô, cam kết của Chính phủ và sự ổn định chính trị
Về môi trường kinh tế vĩ mô, Việt Nam đã có sự chủ động ổn định vĩ mô khá tốt trong vòng 10 năm trở lại đây với tỷ lệ lạm phát giữ ở mức thấp, dự trữ ngoại hối có xu hướng vững chắc hơn. Đây là điều kiện quan trọng để kinh tế phát triển trong điều kiện ngày càng mở và hội nhập sâu vào kinh tế thế giới. Các mối quan hệ kinh tế vĩ mô được dự đoán sẽ tiếp tục được giữ cân bằng trong tương lai sẽ là điều kiện tốt để thúc đẩy tăng trưởng và đón nhận dòng vốn FDI.
Về cam kết của Chính phủ, đã có những cam kết mạnh mẽ hơn với cải cách hành chính nói chung và cải cách hành chính đối với doanh nghiệp nói riêng. Nhiều rào cản đối với doanh nghiệp đã bước đầu được dỡ bỏ, các doanh nghiệp được quyền tự do kinh doanh hơn và đặc biệt đang dấy lên một trào lưu khởi nghiệp được khuyến khích bởi Chính phủ. Nghĩa vụ thuế đối với doanh nghiệp đang được cải thiện dần theo hướng công khai, minh bạch và giảm gánh nặng.
Bên cạnh đó, xu hướng Chính phủ không còn dành nhiều đặc quyền đặc lợi cho các doanh nghiệp nhà nước và quyết tâm đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước ở các doanh nghiệp thuộc các ngành nghề nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối là một dấu hiện tiến bộ trong tư duy quản lý kinh tế hiện đại theo hướng tôn trọng kinh tế thị trường. Những cam kết của Chính phủ đối với cộng đồng các doanh nghiệp nội địa cũng như các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một trong những nhân tố được coi là sẽ tạo ra một cú huých mới cho sự tăng trưởng kinh tế trong tương lai.
– Nguồn lao động dồi dào giá rẻ
Việt Nam là một trong số ít nước có thế hệ dân số vàng với khoảng gần 50 triệu lao động trong độ tuổi được đào tạo tương đối tốt nhưng mức lương trung bình so với mặt quốc tế là khá thấp (thấp hơn khoảng 30% so với Trung Quốc, Ấn Độ). Nhìn thấy lợi thế này, gần đây nhiều hãng điện tử, công nghệ cao trên thế giới đã chuyển hướng đầu tư vào Việt Nam với những dự án hàng tỷ USD thay vì vào Trung Quốc hay các quốc gia truyền thống ở khu vực Đông Nam Á.
Diễn biến phân luồng đào tạo tích cực trong mấy năm gần đây ở Việt Nam theo hướng chuyển mạnh hơn vào đào tạo nghề và công nhân kỹ thuật thay vì đổ xô học đại học, cao học được kỳ vọng là sẽ khắc phục tình trạng thừa thầy thiếu thợ vốn tồn tại trong một thời kỳ dài. Đội ngũ công nhân lành nghề sau khi hết thời hạn xuất khẩu lao động ở các nước phát triển cũng là một xu thế mới bổ sung cho chất lượng của đội ngũ lao động ở Việt Nam.
Hơn nữa, điều khoản tự do di chuyển lao động trong khối các nước thuộc cộng đồng kinh tế ASEAN là một nhân tố khác có tác động tích cực tới lực lượng lao động ở Việt Nam trong những thập niên tới. Sự cải thiện về chất lượng lao động với lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công thấp là một lợi thế quan trọng đóng góp vào sự tăng trưởng của kinh tế Việt Nam.
– Những nhân tố khác
+ Tài nguyên thiên nhiên đa dạng, đặc biệt tài nguyên biển cũng là một trong những lợi thế cho kinh tế Việt Nam phát triển nếu biết khai thác và sử dụng hợp lý theo nguyên lý bền vững. Trong tương lai, tài nguyên du lịch và tín ngưỡng nổi lên là một tiềm năng lớn với lợi thế bờ biển dài, có nhiều đảo gần bờ cùng với sự mở rộng đầu tư các khu nghỉ dưỡng, giải trí cao cấp sẽ là điều kiện để thu hút lượng lớn du khách quốc tế. Ngành du lịch hứa hẹn sẽ là ngành phát triển tiềm năng nhất khi mà các thiên đường du lịch truyền thống ở châu Á bị ảnh hưởng bởi sự bất ổn chính trị và an ninh.
+ Thói quen tiết kiệm cao của dân chúng cũng là một lợi thế tích lũy vốn cho phát triển. Đây là đặc điểm chung của các quốc gia Đông Á. Do trình độ phát triển và mức sống còn hạn chế, hiệu ứng đòn bẩy từ tiết kiệm của Việt Nam được nhận định sẽ có tác động lớn hơn tạo ra sức phát triển mạnh hơn.
+ Sự duy trì và gia tăng lượng kiều hối, sự đoàn kết của dân tộc Việt, sự hướng quốc của cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài, cam kết trợ giúp của các nước phát triển, của các tổ chức chính phủ và phi chính phủ trên trên thế giới cũng là những nhân tố tích cực tiếp tục có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế Việt Nam trong những năm tiếp theo.
5.2. Các nhân tố hạn chế
– Hệ thống luật pháp và thể chế chưa đầy đủ và hoàn thiện
Thể chế kinh tế thị trường chưa được hoàn thiện. Do hạ tầng kiến trúc chưa được hoàn thiện nên thượng tầng kiến trúc nói chung và hệ thống luật pháp nói riêng chưa được đầy đủ và hoàn thiện. Nhiều quan hệ kinh tế, chính trị, trách nhiệm và quyền lợi của các chủ thể, cá nhân trong xã hội, của người Việt Nam và của người nước ngoài ở Việt Nam còn chưa được đầy đủ và hoàn thiện.
– Năng lực quản lý còn hạn chế
Năng lực quản lý thể hiện ở năng lực ban hành chính sách, năng lực thực thi chính sách hiệu quả và năng lực quản lý sự thay đổi trong một thế giới thay đổi với tốc độ ngày càng nhanh. Năng lực quản lý ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động tiếp tục sẽ là một thách thức cho tiến trình phát triển kinh tế của nước ta.
Năng lực quản lý còn thể hiện ở bộ máy quản lý. Theo thống kê, hiện cả nước có khoảng 400.000 công chức nhà nước (không kể lực lượng vũ trang); khoảng 2,3 triệu viên chức thuộc các đơn vị sự nghiệp và khoảng 1,2 triệu cán bộ bán chuyên trách hoạt động ở cấp chính quyền xã. Tính tổng số có đến hơn 10 triệu người hưởng lương ngân sách. Việc tinh giản biên chế là hết sức khó khăn. Đây là một trong những thách thức cho phát triển kinh tế khi mà chi phí đóng góp để nuôi bộ máy hành chính là quá lớn.
– Nợ công tăng nhanh, bội chi ngân sách, hiệu quả đầu tư chưa cao
Mặc dù có nhiều tranh luận về các con số nợ công song không thể phủ nhận một điều là nợ công ở nước ta đã tăng quá nhanh và đã gần cán mức giới hạn tối đa cho phép. Trong khi đó, bội chi ngân sách cũng liên tục tăng.
Nợ công tăng nhanh, trong khi hiệu quả đầu tư công chưa cao là một nghịch lý tồn tại nhiều năm nay. Nhiều dự án đầu tư công hiệu quả thấp. Mặc dù vậy, ước tính cả nước mỗi năm có đến 300.000 dự án đầu tư công các cấp. Đây cũng là vấn đề ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững trong tương lai.
– Ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, cạn dần về tài nguyên
Một trong những đặc tính của mô hình nhà nước phát triển là quá chú trọng vào tăng trưởng nên có xu hướng khai thác cạn kiệt tài nguyên, khả năng kiểm soát công nghệ bẩn, lạc hậu; khả năng kiểm soát chất thải công nghiệp chưa tốt nên ô nhiễm môi trường là căn bệnh cố hữu nhiều quốc gia vấp phải. Hậu quả của việc ô nhiễm môi trường sống là một trong trong những cái giá phải trả, nhiều khi còn lớn hơn lợi ích từ tăng trưởng theo kiểu thâm dụng tài nguyên và sử dụng công nghệ giá rẻ. Sự cố Formosa có thể vừa là một ví dụ tốt để cơ quan công quyền thay đổi cách nhìn nhận về cái giá của sự tăng trưởng cũng như rút ra bài học kinh nghiệm cho tương lai.
Một nhân tố khác có tầm ảnh hưởng không nhỏ là tác động của biến đổi khí hậu. Việt Nam là nước nằm trong vùng nhiệt đới lại chạy dọc theo bờ biển nên ảnh hưởng của nước biển dâng do biến đổi khí hậu là rất lớn. Theo dự báo, có đến 2/3 diện tích đất nông nghiệp thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ngập mặn do biến đổi khí hậu và do tác động của việc chặn dòng chảy của sông Mekong để làm thủy điện của các nước thượng nguồn. Những tác động này cũng sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến tăng trưởng kinh tế, đặc biệt lĩnh vực nông, lâm thủy sản của Việt Nam.
– Sự chênh lệch về thu nhập và các nhân tố khác
Bất bình đẳng gia tăng là nhận định của nhiều nghiên cứu trên thế giới trong thời gian gần đây. Tổ chức từ thiện Oxfam đã dự đoán không lâu nữa 1% những người giàu nhất sẽ chiếm giữ 99% toàn bộ của cải của xã hội. Sự gia tăng cách biệt giữa các nước giàu và nước nghèo càng có xu hướng giãn rộng.
Tại Việt Nam, niên giám thống kê năm 2022 được Tổng cục Thống kê công bố hồi giữa năm ghi nhận mức chênh lệch về thu nhập giữa nhóm người có thu nhập cao nhất và nhóm người có thu nhập thấp nhất tại các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, TP.HCM, Đà Nẵng, Cần Thơ là rất đáng lưu tâm.
Cụ thể, tại Hà Nội, nhóm người có thu nhập bình quân cao nhất khoảng 13,38 triệu đồng/tháng, trong khi nhóm người có thu nhập bình quân thấp nhất khoảng 2,04 triệu đồng/tháng, mức chênh lệch là 6,5 lần.
Tại TP HCM, nhóm người có thu nhập bình quân cao nhất khoảng 12,85 triệu đồng/tháng, trong khi nhóm người có thu nhập bình quân thấp nhất khoảng 2,88 triệu đồng/tháng, chênh lệch 4,5 lần.
Theo Tổng cục Thống kê, chênh lệch thu nhập của cả nước hiện nay khoảng 7,6 lần, trong năm 2022 nhóm người có thu nhập bình quân thấp nhất cả nước đạt 1,35 triệu đồng/tháng, trong khi nhóm người có thu nhập bình quân cao nhất cả nước đạt khoảng 10,23 triệu đồng/tháng.
Nguồn: Báo Tuổi trẻ tổng hợp số liệu từ Tổng cục Thống kê. Link chi tiết.
6. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong thời kỳ kinh tế khởi sắc
Cạnh tranh là thuộc tính của kinh tế thị trường, nhất là trong thời kỳ kinh tế khởi sắc. Theo các nhà kinh tế, môi trường cạnh tranh có tác dụng tạo sức mạnh hướng hành vi của các chủ thể kinh tế tới năng suất, chất lượng và hiệu quả. Trong môi trường cạnh tranh, sức mạnh của các doanh nghiệp không chỉ được đo bằng chính năng lực nội tại, mà điều quan trọng hơn, là trong sự so sánh tương quan giữa các doanh nghiệp với nhau. Do đó, đạt được vị thế cạnh tranh mạnh trên thị trường là yêu cầu sống còn của doanh nghiệp.
Theo các chuyên gia, để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong thời kỳ kinh tế khởi sắc, các nhà quản trị doanh nghiệp có thể xem xét các chiến lược, giải pháp như dưới đây:
– Đổi mới sáng tạo:
+ Nghiên cứu và phát triển (R&D): Đầu tư mạnh mẽ vào R&D để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ mới và cải tiến quy trình sản xuất.
+ Khuyến khích sáng tạo: Xây dựng môi trường làm việc thúc đẩy sự sáng tạo và khuyến khích nhân viên đưa ra ý tưởng mới.
– Ứng dụng công nghệ số:
+ Chuyển đổi số: Áp dụng các công nghệ như AI, Big Data, IoT để tối ưu hóa hoạt động kinh doanh, nâng cao hiệu quả quản lý và sản xuất.
+ Tự động hóa: Sử dụng robot và phần mềm tự động hóa để giảm chi phí và tăng năng suất.
– Phát Triển Nguồn Nhân Lực:
+ Đào tạo liên tục: Tổ chức các khóa đào tạo để nâng cao kỹ năng chuyên môn và kỹ năng mềm cho nhân viên.
+ Chính sách phúc lợi: Xây dựng các chương trình phúc lợi và phát triển nghề nghiệp hấp dẫn để thu hút và giữ chân nhân tài.
– Quản lý tài chính hiệu quả:
+ Tối ưu hóa dòng tiền: Quản lý dòng tiền hiệu quả để đảm bảo tính thanh khoản và khả năng đầu tư vào các dự án tiềm năng.
+ Đầu tư chiến lược: Lựa chọn các dự án đầu tư có lợi nhuận cao và tiềm năng phát triển dài hạn.
– Mở rộng thị trường:
+ Phát triển thị trường quốc tế: Khám phá và xâm nhập các thị trường quốc tế để mở rộng tầm ảnh hưởng và tăng doanh thu.
+ Quan hệ đối tác: Thiết lập các mối quan hệ đối tác chiến lược để tận dụng nguồn lực và cơ hội mới.
– Cải thiện chất lượng sản phẩm/dịch vụ:
+ Tiêu chuẩn chất lượng: Áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế để nâng cao uy tín và lòng tin của khách hàng.
+ Lấy khách hàng làm trung tâm: Liên tục thu thập và phân tích phản hồi của khách hàng để cải tiến sản phẩm/dịch vụ.
– Phát triển thương hiệu:
+ Chiến lược marketing: Xây dựng các chiến lược marketing hiệu quả để tăng cường nhận diện thương hiệu và lòng trung thành của khách hàng.
+ Trách nhiệm xã hội: Thực hiện các hoạt động trách nhiệm xã hội để tạo dựng hình ảnh doanh nghiệp thân thiện và trách nhiệm.
– Tăng cường khả năng thích ứng:
+ Chiến lược linh hoạt: Xây dựng các chiến lược kinh doanh linh hoạt để nhanh chóng thích nghi với thay đổi của thị trường.
+ Quản trị rủi ro: Phát triển các kế hoạch quản trị rủi ro để đối phó với các biến động và khủng hoảng tiềm ẩn.
Một trong những ứng dụng giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh và tận dụng cơ hội phát triển được người dùng đánh giá cao hiện nay là nền tảng quản trị doanh nghiệp hợp nhất MISA AMIS.
Với khả năng tích hợp toàn diện các chức năng từ quản lý tài chính, nhân sự, bán hàng đến chăm sóc khách hàng, MISA AMIS cung cấp cho doanh nghiệp một cái nhìn toàn cảnh và chi tiết về hoạt động của mình, từ đó thấy được các điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp một cách chính xác nhất.
Đây là một công cụ toàn diện, tích hợp nhiều tính năng quản lý hiện đại, giúp tối ưu hóa mọi khía cạnh của hoạt động kinh doanh. Với MISA AMIS, doanh nghiệp có thể:
– Quản lý tài chính – kế toán: Theo dõi, kiểm soát dòng tiền và quản lý các khoản thu chi một cách chính xác và nhanh chóng.
– Quản lý nhân sự: Hỗ trợ tuyển dụng, đào tạo, đánh giá hiệu suất và quản lý phúc lợi nhân viên hiệu quả.
– Quản lý bán hàng và marketing: Tích hợp các công cụ CRM, giúp theo dõi quá trình bán hàng, chăm sóc khách hàng và thực hiện các chiến dịch marketing thông minh.
– Quản lý dự án: Lập kế hoạch, theo dõi tiến độ và đánh giá kết quả dự án một cách hiệu quả.
Với việc sử dụng MISA AMIS, các doanh nghiệp không chỉ nâng cao năng lực cạnh tranh mà còn xây dựng được hệ thống quản trị linh hoạt và hiện đại. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh thị trường liên tục biến động và phát triển nhanh chóng.
Trải nghiệm ngay phần mềm MISA AMIS tại đây:
7. Kết luận
Tăng trưởng kinh tế là một mục tiêu quan trọng mà hầu hết các quốc gia đều hướng tới. Nó không chỉ góp phần nâng cao mức sống của người dân mà còn tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, muốn đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững, các quốc gia cần phải cân bằng các yếu tố như vốn, lao động, tiến bộ công nghệ và nâng cao năng suất.
Chính phủ cũng cần có những chính sách kinh tế, xã hội và môi trường phù hợp để tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng. Chỉ khi nắm vững bản chất và các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, các quốc gia mới có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng bền vững trong tương lai.